Trang

Thứ Bảy, 8 tháng 8, 2015

09-08-2015 : (phần II) CHÚA NHẬT XIX MÙA THƯỜNG NIÊN năm B

09/08/2015
Chúa Nhật 19 Quanh Năm Năm B
(phần II


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật XVII Thường Niên - năm B
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN B
1V 19,4-8; Ep 4,30-5,2; Ga 6,41-51
Chủ đề:
CHÚA NUÔI DÂN NGƯỜI
BẰNG BÁNH BỞI TRỜI
Tôi là Bánh Trường Sinh từ trời xuống.
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời

(Ga 6,51)

I. CÁC BÀI ĐỌC
Lịch sử Dân Thiên Chúa và cuộc đời của mỗi người tín hữu được xem như là một cuộc hành trình hướng về phía trước, hướng về nơi gặp gỡ Thiên Chúa để được sống đời đời với Người. Để có thể đạt tới đích của cuộc hành trình này, các tín hữu cần phải có lương thực của Thiên Chúa dưỡng nuôi. Đối với người Công giáo, lương thực trường tồn mà Thiên Chúa ban đó chính là Mình và Máu Thánh Đức Giêsu Kitô.
1. Bài đọc 1 (1V 19,4-8):
Bối cảnh của Bài đọc 1 hôm nay là: do ngôn sứ Êlia lên tiếng chống đối dân chúng thờ ngẫu tượng mà hoàng hậu Ideven, người vợ ngoại giáo của vua Akháp, đưa vào đất Israel và sau khi ngôn sứ Êlia sát hại 400 thầy chiêm của thần Baal, ông bị bà Ideven truy nã gắt gao nên phải trốn chạy vào sa mạc để thoát thân (1V 19,1-3). Trong sa mạc, do đói khát và thất vọng, ông xin Thiên Chúa cho mình được chết. Trong hoàn cảnh như thế, Thiên Chúa sai thiên sứ đến đem cho ông một chiếc bánh và một hũ nước. Được Chúa ban cho bánh và nước làm lương thực bổ dưỡng, ngôn sứ Êlia lấy lại sức và tiếp tục cuộc hành trình suốt 40 ngày đến núi Khôrép để gặp gỡ Thiên Chúa.
Hành trình chạy trốn vào sa mạc của ngôn sứ Êlia là biểu tượng cho hành trình của những ai đang sống trong vô vọng, không có định hướng cho cuộc đời. Tuy nhiên, ngôn sứ Êlia lại là biểu tượng cho người tin, vì trong lúc thất vọng tột cùng không có gì bám víu thì vị ngôn sứ lại nhớ tới một Đấng duy nhất mà ông có thể kêu van, dù với những lời than oán. Thiên Chúa đã đoái nghe và cứu ông khỏi chết. Bánh Thiên Chúa ban để ngôn sứ Êlia bổ dưỡng và được sống để tiếp tục cuộc hành trình là hình ảnh tiên trưng về Bánh Ban sự sống là Thân Mình Đức Giêsu Kitô, thần lương bổ dưỡng cho các Kitô hữu trên hành trình tiến về gặp gỡ Thiên Chúa trong cõi sống đời đời.
2. Bài đọc 2 (Ep 4,30‒5,2):
Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu đừng làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, Đấng đã ghi “dấu ấn tình yêu” trên các tín hữu ngày họ chịu Phép Rửa. Nhờ được lãnh nhận cùng Phép Rửa duy nhất, các tín hữu được kết hợp nên một với Đức Kitô, nên được kêu gọi sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương họ. Cụ thể là thánh Phaolô đòi hỏi người Kitô hữu tránh những nết xấu: đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác; và thực hành các nhân đức: đối xử tốt với nhau, có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau. Động cơ thúc đẩy thực hành các điều trên là tình yêu Thiên Chúa dành cho các tín hữu qua Đức Giêsu Kitô: “hãy sống trong tình bác ái như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngạt ngào” (Ep 5,2)
Vì đã được chịu một Phép Rửa duy nhất cùng một Thánh Thần, các Kitô hữu trở nên một trong Đức Giêsu Kitô, thì lúc này họ cũng phải sống cho nhau trong tình yêu thương bác ái vì được kết hợp trong một hiến lễ duy nhất là Mình và Máu Đức Giêsu Kitô trong thánh lễ mỗi ngày.
3. Bài Tin Mừng (Ga 6,41-51):
Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong trình thuật dấu lạ hóa bánh ra nhiều và diễn từ Bánh Trường Sinh (Ga 6,1-59). Khi thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, người Do-thái cho rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” nên họ muốn “tôn Người làm vua”, nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6,14-15) vì không muốn người Do-thái hiểu sai sứ vụ của Người. Ngày hôm sau, người Do-thái lại đi tìm Đức Giêsu để được có bánh vật chất để ăn, nhưng Đức Giêsu đã dạy họ hãy “làm” để có lương thực trường tồn (Ga 6,24-27). Việc họ cần phải “làm” đó là “tin vào Đấng đã sai Người đến” (Ga 6,29). Để có thể tin, họ đòi một dấu lạ như “dấu lạ mana-bánh bởi trời” mà Thiên Chúa đã ban cho tổ tiên họ ở sa mạc trong hành trình tiến về Đất Hứa.  
Từ khởi điểm này Đức Giêsu đã mặc khải: “Tôi là Bánh từ trời xuống” (Ga 6,42). Đúng ra, đó là thứ bánh đích thật mà người Do-thái cần phải tìm kiếm để có sự sống đời đời. Lời này làm cho người Do-thái “xì xầm phản đối” vì họ biết quá rõ về gia thế của Người. “Xì xầm phản đối” là thái độ tương đồng với phản ứng của cha ông họ trong sa mạc khi không tin vào lời hứa của Thiên Chúa và sứ vụ của ông Môsê. Dù vậy, Đức Giêsu vẫn đưa họ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi quả quyết: Người được Chúa Cha sai đến nên hễ ai tin và đón nhận Người  thì được sự sống đời đời (Ga 6,44-47).
Xưa tổ tiên người Do-thái ăn “mana-bánh bởi trời” nhưng còn phải chết, còn lúc này họ lại được ban “Bánh Trường Sinh từ trời xuống”, nếu họ có niềm tin và sẵn sàng đón nhận Đức Giêsu chính là Bánh Trường Sinh từ trời xuống, thì không còn phải chết nữa, mà được sống muôn đời. Đối với chúng ta cũng vậy, Bánh Trường Sinh đó chính là Mình và Máu Đức Giêsu, để ai ăn Thịt và uống Máu này thì sẽ được kết hiệp với Đức Giêsu và sẽ được sống đời đời. Vấn đề là chúng ta có tin và đón nhận Người vào trong cuộc đời của chúng ta hay không?
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Dậy mà ăn, vì còn phải đi đường xa”. Con người cần cơm bánh để duy trì sự sống và để tiếp tục tiến về phía trước trong hành trình của cuộc đời. Trong hành trình đời sống đức tin, người Kitô hữu cũng cần một thứ bánh đích thực để bổ dưỡng, hầu có đủ sức tiến về Nước Trời. Bánh đó chính là Mình Đức Giêsu. Khi mặc khải “Tôi là Bánh Trường Sinh”, Đức Giêsu muốn so sánh rằng ngôn sứ Êlia cần bánh bổ sức để tiếp tục cuộc hành trình 40 ngày tiến về núi Khôrép và tổ tiên người Do-thái cần manna nuôi dưỡng để có thể tiếp tục hành trình 40 năm tiến về Đất Hứa thế nào, thì chúng ta cũng cần “Bánh Trường Sinh” là “Mình của Đức Giêsu” như vậy. Nếu chúng ta tìm kiếm thứ bánh vật chất để có thể duy trì sự sống, nhưng chỉ là sự sống tạm bợ ở trần gian mà thôi và cuối cùng cũng phải chết, thì chúng ta lại càng cần phải tìm cho được thứ Bánh đích thực đem lại sự sống đời đời là dường nào. Cần lưu ý lời của ĐGH Phanxicô trong Tông Huấn Niềm Vui của Tin Mừng: “Bí tích Thánh Thể, tuy là sự sung mãn của đời sống bí tích, nhưng không phải là một phần thưởng cho người hoàn thiện, mà là một phương thuốc và lương thực cho người yếu đuối” (số 47). Như thế, càng thấy mình yếu đuối, thiếu sức sống, thì càng phải siêng năng dọn lòng để rước Mình Máu Đức Giêsu Kitô. Chúng ta có ý thức rằng việc siêng năng tham dự Thánh lễ và dọn mình xứng đáng rước Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô sẽ bảo đảm cho ta có đủ sức lực tiến bước trên hành trình đức tin tiến về Quê Trời?
2. “Hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta”. Sợi dây đích thật liên kết chúng ta với Đức Kitô được thể hiện qua đời sống bác ái. Vì tự bản chất, Bí tích Thánh Thể là “Bí tích tình yêu” của Đấng đã hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu là chúng ta. Khi đã rước lấy Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, được nên một với Người, các Kitô hữu không thể sống mà không thực hành bác ái, không yêu thương anh chị em mình, nhất là những người đã cùng rước chung một Thân Mình Đức Giêsu Kitô. Chúng ta có biết rằng, sau mỗi thánh lễ, Đức Kitô đang ngự trong lòng thúc đẩy mỗi người hãy tha thứ cho nhau và sống yêu thương đùm bọc lẫn nhau hay không?
3. “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời”. Lời mặc khải này làm cho người Do-thái sững sờ, khó chịu, và lại càng bị sốc khi nghe Đức Giêsu nói thêm: “bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây” (Ga 6,51). Nói lời này, Đức Giêsu mời họ tin vào Người, đón nhận giáo huấn của Người và ăn bánh trường sinh là Mình Người trong Bí tích Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập. Theo thánh Gioan, tin vào Đức Giêsu (Ga 6,47) và ăn bánh Người ban tặng (Ga 6,51) có liên hệ mật thiết với nhau, vì đều đưa đến sự kết hợp mật thiết Đức Giêsu Kitô. Người Do-thái không thể nào tin những lời này khi cho rằng Đức Giêsu chỉ là một người Nadarét, gia cảnh rất bình thường nên cũng không thể đón nhận Bánh Trường Sinh Người ban tặng. Để đón nhận mặc khải này, họ phải có đức tin và đức tin này phải vượt qua những “thành kiến”. Với các Kitô hữu cũng thế, nếu không có đức tin, chúng ta không thể nào đón nhận được Bí tích Thánh Thể, vì đó “là mầu nhiệm đức tin”, như lời chủ tế cống bố sau phần truyền phép trong mỗi thánh lễ. Chúng ta có tin rằng việc rước lễ là rước Mình Máu Đức Giêsu, và qua việc rước lễ, chúng ta được trao ban sự sống đời đời, để sau mỗi thánh lễ, chúng ta cần có lối sống tương xứng với Đấng đang ngự trong lòng chúng ta hay không?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa Cha đã ban tặng bánh hằng sống bởi trời cho thế gian là chính Con Một yêu dấu của Người để cho nhân loại được sống đời đời. Chúng ta hãy đồng thanh cảm tạ Chúa và tin tưởng dâng lời cầu xin.
1. Thánh Thể là Bí tích tình yêu và hiệp nhất. Chúng ta cùng cầu xin cho Hội Thánh luôn trung thành với lệnh truyền của Chúa khi cử hành Bí tích Thánh Thể, đồng thời cũng trở nên dấu chỉ tình yêu và mối dây hiệp nhất muôn người trên thế giới.
2. Chúa Giêsu là bánh hằng sống bởi trời mà xuống. Chúng ta cùng cầu xin cho các dân tộc và quốc gia trên thế giới biết đón nhận Tin Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu loan báo, luôn liên đới cộng tác nhằm bảo vệ môi trường sống và thăng tiến phẩm giá con người.
3. Chúa Giêsu phán: “Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi kitô hữu, nhất là những ai đang đau yếu hay thất vọng, tìm được nguồn ủi an nâng đỡ nơi Bí tích Thánh Thể, và có thêm sức mạnh để tiến bước trên hành trình về quê trời.
4. “Hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu thương chúng ta.” Xin cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta khi tham dự cử hành Thánh Thể cũng được thấm nhuần tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu, luôn biết quên mình để chia sẻ và dấn thân phục vụ mọi người.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho chúng con được tham dự vào sự sống thần linh qua Con Một yêu dấu của Chúa. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con luôn sống xứng đáng với ân huệ Chúa ban. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Chủ đề :
Bánh trường sinh

"Ta là bánh trường sinh"
(Ga 6,48)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (1 V 19,4-8) : Thiên Chúa sai thiên thần mang cho ngôn sứ Êlia bánh và nước, nhờ đó Êlia đã có đủ sức để hoàn thành cuộc hành trình lên núi Horép gặp Chúa.
- Đáp ca (Tv 33) : "Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn".
- Tin Mừng (Ga 6,41-51) : Đức Giêsu tiếp tục bài giảng về bánh trường sinh, dẫn đến ý tưởng "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống"

I. Dẫn vào Thánh  lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta là những khách lữ hành trên dương thế. Điểm tới của chúng ta là quê trời. Nhưng cuộc hành trình vừa dài lâu vừa vất vả. Chúa biết thế nên Ngài thương ban cho chúng ta thứ lương thực bồi dưỡng sức lực là chính Mình Ngài trong Bí Tích Thánh Thể.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy đến với Chúa, hãy sốt sắng rước Ngài vào lòng, để có sức tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta.

II. Gợi ý sám hối
- Xin Chúa thứ tha cho những lần chúng con ngã lòng, chua chát và phiền trách Chúa.
- Xin Chúa tha thứ vì những lần mệt mỏi chán chường chúng con đã không chạy đến tìm sức mạnh nơi Chúa.
- Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con rước lễ mà không đủ đức tin.

III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 V 19,4-8)
Sau lần ngôn sứ Êlia giết các sư sãi baal, ông bị hoàng hậu Giêsabel truy nã gắt gao. Ông phải chạy trốn lên núi Horép. Nhưng dọc đường vì quá mệt ông đã nằm ỳ xuống đất. Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Sau khi ăn uống xong, Êlia lấy lại sức và đi một mạch lên đến núi Horép diện kiến Chúa.
2. Đáp ca (Tv 33)
Thánh vịnh này của một tác giả đã từng gặp hoạn nạn, đã kêu xin Chúa và đã được Ngài cứu thoát. Một câu trong Thánh vịnh rất đúng với hoàn cảnh của ngôn sứ Êlia : "Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn".
3. Tin Mừng (Ga 6,41-51)
Hai ý tưởng then chốt của bài Tin Mừng này là "đến với" và "tin vào" Chúa :
Việc "tin vào" Đức Giêsu, thể hiện bằng việc "đến với" Ngài là kết quả của sự hợp tác của hai phía :
- Phía Thiên Chúa : Thiên Chúa ban ơn "lôi kéo" con người tin vào Đức Giêsu và đến với Ngài : "Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy" (câu 44). Thực ra, Thiên Chúa luôn muốn "lôi kéo" con người đến với Đức Giêsu để con người được sống. Nhưng con người ít ra phải ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa lôi kéo. Nhiều người do thái đã không ngoan ngoãn như vậy nên đã không đến được với Đức Giêsu.
- Phía con người : phải "nghe lời giáo huấn" của Thiên Chúa. : "Ai nghe lời giáo huấn của Cha thì đến với Ta" (câu 45). Mà Thiên Chúa thì luôn giáo huấn con người : "Trong sách các ngôn sứ có chép rằng mọi người sẽ được Thiên Chúa giáo huấn" (câu 45). Câu nói này ngầm trích dẫn Is 54,13. Mà đại ý chương 54 sách Isaia là kinh nghiệm của dân Israel vào cuối thời lưu đày : họ đã thấy rằng Thiên Chúa luôn quyến luyện con người như một người chồng quyến luyến vợ. Đó chính là giáo huấn mà Thiên Chúa đã ban cho Israel qua dòng lịch sử. Như thế, "nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa" nghĩa là ý thức rằng Thiên Chúa luôn yêu thương mình.
Tóm lại, việc "tin vào" Đức Giêsu và "đến với" Ngài là điều Thiên Chúa yêu thương luôn tạo điều kiện để con người thực hiện được dễ dàng. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương Thiên Chúa thì con người có thể làm được.
4. Bài đọc II: (Êp 4,30-32--5,2) (Chủ đề phụ)
Sau khi khuyên dạy các tín hữu phải cởi bỏ nếp sống cũ hồi còn là dân ngoại để mặc lấy nếp sống mới giống Đức Kitô (Chúa nhật 18), Thánh Phaolô giải thích rõ hơn về nếp sống mới : tha thứ cho những điều xấu người khác gây cho mình, và sống bác ái yêu thương. Có như thế kitô hữu mới trở thành hy lễ tựa hương thơm ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa.

IV. Gợi ý giảng
* 1. Bánh hằng sống
Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay được trích từ sách Các Vua và kể về cuộc hành trình gian khổ của Tiên tri Êlia : Vì ông đã tiêu diệt thứ đạo đầy mê tín dị đoan mà bà Hoàng Hậu Jésabel đem vào nước nên ông bị Bà này thù ghét tìm giết. Do đó ông phải chạy trốn và định trốn lên tận đỉnh núi Horep. Nhưng đường quá dài và nhiều gian nan nên ông mệt mỏi, chán nản bi quan nằm đại xuống đường phó mặc cho số mạng tới đâu thì tới. Lúc ấy Chúa sai Thiên Thần đem đến cho ông một chiếc bánh và một bình nước. Ăn uống xong, ông cảm thấy khoẻ khoắn và lạc quan trở lại, đi một mạch suốt 40 ngày đêm lên tận đỉnh núi Horép.
Thứ bánh thần diệu đã bổ sức cho tiên tri Êlia chỉ là hình bóng của Thứ Bánh mà Đức Giêsu sẽ ban cho loài người, tức là Mình Thánh Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". Thực vậy, mỗi lần chúng ta rước lễ là ta được ăn chính Mình Thánh Chúa, và của ăn đó đem lại cho người rước lễ biết bao ơn quý giá.
Nhiều người đã từng ở tù sau khi về nhà đã thuật lại rằng cuộc sống trong đó thật là cực khổ, tinh thần xuống dốc, đâm ra bi quan, chán đời. Nhưng đối với những người công giáo, nếu thỉnh thoảng được Rước Mình Thánh Chúa thì họ cảm thấy được an ủi rất nhiều, dù sức chịu đựng những sự cực khổ, tinh thần vững vàng và còn lạc quan vui vẻ giúp đỡ những anh em khác nữa. Trong hoàn cảnh khốn đốn như thế, người ta mới thấy rõ MTC thực là của ăn cần thiết cho tâm hồn mình.
Còn chúng ta, hoàn cảnh của chúng ta dễ dãi, có lẽ chúng ta không thấy được sự cần thiết của MTC. Cũng giống như người ăn nhiều quá nên không còn biết ngon nữa, chúng ta cũng thế : chúng ta có thể rước MTC hằng tuần, hằng ngày nếu quá quen và quên để ý đến những giá trị vô cùng cao quý của MTC.
. MTC là biểu hiệu của một sự gần gũi rất thân thiết và rất sẵn sàng : nghĩa là trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có thể rước lễ và được Chúa ở gần cạnh ta để an ủi, nâng đỡ, khích lệ ta. Trong cuộc đời chúng ta, có thể có những lúc chúng ta cảm thấy rất cô đơn, mọi người đều xa cách ta, kể cả những người thân thiết nhất cũng bỏ ta. Chỉ có Chúa là không xa ta, không bỏ ta,. Ta rước lễ là được MTC đến ở trong lòng ta, gần thật gần, thân thật thân, và Chúa sẽ an ủi nâng đỡ khích lệ ta.
. MTC còn là biểu hiệu của một sự trao hiến trọn vẹn đầy yêu thương : Yêu thương là cho đi. Rước Lễ là một cuộc gặp gỡ giữa hai người yêu nhau trao quà tặng cho nhau. Đức Giêsu trao tặng chúng ta cái quý giá nhất là chính thân xác của Ngài. Còn chúng ta cũng trao cho Chúa những cái quý nhất của chúng ta : Những việc bác ái chúng ta đã làm được, những hy sinh chúng ta đã chịu và cả những tâm sự buồn phiền ray rứt đang dằn xé tâm can ta.
. MTC còn là biểu hiệu của một sự hiện diện đầy quyền năng của một vị lãnh tụ của chúng ta. Đó là khám phá của một nhà trí thức Ấn Độ, ông Chidambaram. Là một người trí thức luôn đi tìm chân lý hoàn hảo nhất, ông khởi sự đi tìm trong nghề là báo, nhưng sau đó ông thấy rằng nghề báo cũng dầy dẫy những sự gian dối. Ông theo đạo Bàlamôn và là một tín đồ nhiệt thành, nhưng ông cũng không thoả mãn,. Ông sang Ấn giáo vì cho rằng Ấn giáo là thứ đạo Bàlamôn được cải tiến tốt đẹp hơn. Dù vậy ông cũng thất vọng. Cuối cùng ông gia nhập đạo Công giáo, ông thấy thoả mãn và trung thành với Đức tin công giáo cho đến hơi thở cuối cùng. Vậy cái gì trong Công giáo đã làm thoả mãn khát vong của ông ? Thưa chính là Phép Thánh Thể MTC. Ông đã nhận thấy rằng việc Đức Giêsu hiện diện thật sự trong MTC, và khi rước lễ chính Đức Giêsu đến ở thật sự trong lòng các tín hữu là một điều quý giá vô cùng mà không một tôn giáo nào trên khắp thế giới có được. Thần thánh của các tôn giáo kính vị viễn chi (nghĩa là kính nhưng mà phải ở xa xa). Còn trong đạo Công giáo, nhờ có bí tích MTC, Đức Giêsu ở thật gần với tín hữu của mình, thấu hiểu hết mọi tâm tư nguyện vọng của mình, thông cảm với mọi nỗi khó khăn của mình, và nâng đỡ thêm sức hướng dẫn mình trong từng chi tiết từng biến cố trong đời sống mình. MTC quả là một sáng kiến vô cùng thông minh của quyền phép TC và cũng là một ơn vô cùng cao quý cho con người.
Nếu mỗi lần chúng ta rước lễ mà chúng ta hiểu được, cảm được và sống được những tâm tình như vậy thì chắc chắn MTC sẽ trở thành một thứ lương thực bổ dưỡng cho linh hồn chúng ta, đúng như Lời Chúa phán trong bài Tin mừng hôm nay : Ta là bánh hằng sống bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời.
* 2. Bánh hằng sống
Trong kho tàng văn hóa Việt Nam có chuyện "Thoại Khanh Châu Tuấn". Đó là tên của hai vợ chồng trẻ. Nhà họ nghèo, lại phải nuôi một người mẹ già yếu. Nhưng người vợ trẻ hy sinh chịu cực khổ làm lụng để cho chồng học hành đi thi, rồi đến ngày người chồng từ giã mẹ và vợ lên đường về kinh đô ứng thí. Rủi là trong lúc đó gia đình lâm cảnh đói rách rất thê thảm, người mẹ già đói quá sắp chết. Người vợ trẻ đã cam đảm lấy dao lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng. Nhờ đó mà người mẹ già mù loà có thể sống được cho tới ngày con trai đổ đạt vinh quy về nhà.
Câu chuyện cổ tích tưởng tượng trên cũng cảm động như câu chuyện thực sự diễn ra hàng tuần, hàng ngày trong Thánh Lễ : Đức Giêsu lấy chính Thịt Máu Mình để nuôi sống linh hồn chúng ta : "Ta là bánh hằng sống".
Nhưng phải thú nhận ngay rằng : Khi nghe câu chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn ta thấy cảm động, còn khi nghe câu "Ta là bánh hằng sống" chúng ta thấy vẫn trơ trơ. Tại vì tai ta đã nghe câu đó quá thường rồi. Thực ra, đây không phải là một câu nói bóng bảy văn chương, mà là một sự thật : Mình Thánh Chúa thực là một thứ của ăn có sức bổ dưỡng thần diệu :
1/ Ngày xưa tiên tri Êlia bị bà hoàng hậu Giêzabel gian tà hung ác săn đuổi. Ông quá mệt mỏi đói khát, nằm vật xuống đất chỉ chờ chết đi. Nhưng Thiên Chúa sai một Thiên Thần đem lại cho ông một chiếc bánh nhỏ,. Ông ngồi dậy ăn vào và có sức đi suốt 40 ngày tới đỉnh núi Carmel hội kiến với Thiên Chúa. Đó chỉ là một hình bóng của Cựu Ước thôi, huống chi thực tại Rước Lễ của Tân Ước còn có sức bồi dưỡng đến mức nào !
2/ Tin Mừng cũng kể rằng có lần dân chúng tấp nập đón Đức Giêsu đi ngang qua những người bệnh tật cố sức chạm tới mình Ngài, rờ tới gấu áo Ngài, hay ít ra được bóng Ngài che phủ lên mình thì lập tức bao bệnh hoạn liền biến mất. Huống chi ngày nay chúng ta được Rước chính Mình Thánh Chúa vào kết hợp mật thiết với thịt máu ta, hoà tan trong thịt máu ta.
3/ Tục ngữ VN chúng ta có câu "Trời đánh tránh bữa ăn" : khi cùng dùng cơm chung với nhau một bàn, người ta phải dẹp bỏ mọi xích mích để cố hòa hợp đoàn kết với nhau. Bữa ăn thường còn thế, huống chi bữa ăn thánh của những người cùng là con cái Chúa và anh em với nhau.
Những so sánh nho nhỏ trên cho ta thấy rằng MTC thật là một thứ bánh hằng sống có thể thêm sức cho chúng ta trên con đường dương thế, có thể tẩy xoá mọi yếu đuối bệnh tật trong linh hồn chúng ta và có thể giúp chúng ta đoàn kết yêu thương nhau.
Nhưng thực tế là chúng ta đã rước lễ biết bao nhiêu lần mà vẫn chẳng thấy ích lợi bao nhiêu. Chính các tông đồ cũng vậy : Thánh Lễ đầu tiên do chính Đức Giêsu cử hành trong nhà Tiệc ly, tất cả 12 tông đồ đều rước lễ, nhưng sau đó đâu phải tất cả 12 đều được thánh hóa : Giuđa vội ra đi tính việc bán Chúa, Phêrô sau đó đã chối Chúa 3 lần, chỉ có Gioan là vẫn theo sát bên Chúa trên đường tử nạn.
Thực ra cũng chẳng có gì là khó hiểu : như một dĩa thức ăn thật bổ dưỡng, nhưng nếu người ta mà không tiêu hóa thì cũng vô ích thôi, có khi còn sinh ra trúng thực hay bội thực nữa. Nếu chúng ta rước lễ thường xuyên mà chẳng được ích lợi thì không phải tại MTC mà tại chính chúng ta. Vì thế cũng cần xét lại cách chúng ta rước lễ như thế nào. Xin đưa ra một vài mẫu gương để chúng ta cùng chiêm ngắm :
1/ Các tín hữu sơ khai gọi Thánh Lễ là tiệc bẻ bánh : Khi tới nhà thờ, mọi người đều cố gắng đem phần bánh của mình đến. Người nghèo đem ít, người giàu đem nhiều, kẻ túng thiếu có khi không mang gì hết. Chủ tế thu nhận tất cả rồi truyền phép biến bánh thành MTC. Sau đó mọi người chia đều nhau, ai có phần nấy, lại có một số phần để dành đem chia cho những người giả cả yếu đau không thể tới dự nghi lễ bẻ bánh rượu. Người ta đã đến dự lễ với tấm lòng quảng đại, với trái tim yêu thương đùm bọc nhau. Kết quả là họ đạo trở thành một tổ ấm khiến lương dân phải trầm trồ khen ngợi "Kìa xem họ thương yêu nhau đến mức nào".
2/ Tới thời Rôma bị bắt đạo, các tín hữu phải ẩn trốn trong các đường hầm ở ngoại ô gọi là những hang toại đạo. Họ cử hành Thánh Lễ trên mồ chôn các thánh tử đạo. Họ dâng lễ bằng chính những hy sinh gian khổ của họ đang chịu vì Chúa, và họ rước lễ như rước lấy nghị lực của Đấng cũng đã từng chịu nạn chịu chết như họ. Và kết quả là họ đã có một đức tin kiên vững, gian lao không sờn, chết chóc không nản, hận thù không giết chết trái tim yêu thương của họ. Ngày nay trong các hang toại đạo, du khách vẫn còn thấy vẽ những hình về Bí tích Thánh Thể như những đĩa bánh, những chùm nho, những con cá... và những câu tràn đầy yêu thương tha thứ tin tưởng như sau : "Bình an", amor "tình yêu thương", Christus vincit "Đức Kitô chiến thắng"...
Đường đời chúng ta như một cuộc lữ hành gian nan nhọc mệt.
Cuộc đời chúng ta như một cuộc chiến đấu cực khổ đau thương.
Cuộc sống chúng ta với người khác nhiều khi bực bội như hoả ngục.
Đức Giêsu muốn giúp chúng ta, nên Ngài đã hiến thân làm bánh hằng sống để ban nghị lực cho chúng ta có thể đi trọn đường dài, ban ơn nâng đỡ cho chúng ta chịu đựng những khổ đau, ban thêm tình thương để chúng ta sưởi ấm lòng mình và sưởi ấm lòng những kẻ sống với mình.
Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng giúp chính chúng ta nữa bằng cách tham dự Thánh Lễ và rước lấy thứ Bánh Hằng Sống đó một cách sốt sắng. Rước Lễ sốt sắng là có dọn mình trước khi dự lễ, kết hợp sâu xa với Ngài đã ngự vào lòng ta, và sau đó cùng đồng hành với Ngài bước vào cuộc sống với tâm tình lạc quan, yêu thương, quảng đại.
Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết trường sinh.
Tần Thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ.
Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân Hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
*
Trường sinh bất tử là ước mơ ngàn đời của con người. Cứ mỗi lần một người thân giã từ cõi thế, thì ước mơ được sống mãi lại càng dày vò con người dữ dội hơn. Nên không lạ gì khi Đức Giêsu nói về cuộc sống trường sinh thì mọi người tuôn đến như đi tìm kho báu.
Nhưng mầu nhiệm về "Sự sống đời đời" lại rất xa tầm trí mọn của đám dân chúng. Đức Giêsu không giúp họ thoát khỏi cái chết của thân xác, vì chính Người cũng vui lòng chết như mọi người. Nhưng Người cứu họ thoát khỏi cái chết của linh hồn : cái chết vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa và hoàn toàn ly biệt với tha nhân, cái chết đi vào trầm luân muôn kiếp, cái chết dẫn đến cõi tiêu diệt muôn đời.
Cuộc sống vĩnh cửu ấy, hôm nay Đức Giêsu đã mạc khải : "Ta là Bánh ban Sự Sống… Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời" (Ga.6,47). Vậy bí quyết trường sinh mà Tần Thủy Hoàng khó nhọc đi tìm kiếm tận các đảo thần tiên, lúc nào cũng hiện diện trước mặt chúng ta, trong mọi thánh đường Công giáo. Chính là Đức Giêsu nguồn mạch trường sinh.
Người đang hiện diện với chúng ta bằng thần trí Người : "Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ" (Mt.18,20).
Người còn hiện diện với chúng ta qua Lời Chúa. Lời mà Người nói cách đây 2000 năm cũng chính là Lời Người đang nói với chúng ta trong tin mừng.
Người hiện diện với chúng ta qua các linh mục trong lúc giảng dạy và trong khi cử hành các Bí tích : "Ai nghe các con là nghe Ta" (Lc.10,16).
Đặc biệt Người hiện diện thực sự với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể : "Ta là bánh hằng sống… Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời" (Ga.6,52).
Như vậy, "Sự sống đời đời" không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc nuôi dưỡng linh hồn đưa ta về chốn trường sinh.
*
Lạy Đức Giêsu, như Tấm Bánh Thánh xin cho tâm hồn chúng con nên trong trắng, cố xa tránh những ô uế cho dù nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.
Xin cho tâm hồn chúng con nên khiêm hạ nhỏ bé, nhưng luôn bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Và cho tâm hồn chúng con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Mất tinh thần
Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlia. Ông đã từng can đảm dám một mình chống lại hoàng hậu Giêsabel và giết hết tất cả các sư sãi của bà này. Nhưng sau đó, bị bà này truy bắt, ông phải chạy vào sa mạc. Cuộc trốn chạy quá vất vả khiến ông chán nản không muốn tiếp tục nữa. Ông ngồi bẹp dưới gốc một cây kim tước. Ông còn xin Chúa cho ông chết đi cho rồi : "Lạy Chúa, đủ rồi. Bây giờ xin Chúa lấy mạng con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông con".
Tâm trạng Êlia lúc đó là mất tinh thần. Khi ta mất tinh thần thì ta mất nguồn sức mạnh lớn nhất, bởi vì tinh thần đối với con người cũng giống như đôi cánh đối với loài chim, và như bộ rễ đối với loài cây vậy.
Ngay cả những nhân vật anh hùng cũng có lúc cảm thấy mệt mõi, yếu đuối và thất vọng. Nhưng không phải vì thế mà họ không còn là anh hùng. Đúng hơn, những lúc đó cho thấy họ thực sự là người. Chính Đức Giêsu cũng từng trải qua những giây phút như thế trong vườn Cây Dầu.
Nhiều người không thể chấp nhận những giới hạn do thân phận làm người của mình. Họ muốn tỏ ra lúc nào cũng mạnh. Họ cho rằng họ sẽ bị mất mặt nếu để cho người ta thấy được sự yếu đuối và sợ hãi của mình. Nhưng sự thực không phải thế. Người ta sẽ cảm động và sẵn sàng giúp ta khi thấy ta cũng là người giống như họ. Như lời Picasso nói : "Lòng bạn sẽ tràn ngập cảm thông khi bạn nhận ra rằng trong mỗi người có cả một nguồn nước mắt".
Có người còn cho rằng cảm giác yếu đuối đó không xứng với người có đức tin. Nhưng thực ra, yếu đuối đâu có gì ngược với đức tin. Vả lại làm sao ta có thể được giúp đỡ nếu ta không thấy mình cần được giúp đỡ ?
Chúa sai một thiên thần mang đến cho Êlia bánh và nước. Nhờ thứ lương thực này, Êlia được bổ sức và đi một mạch đến núi Horép, núi của Chúa. Thực ra, tình trạng yếu đưối trước đây của Êlia không phải chỉ do thiếu lương thực mà do mất tinh thần. Bây giờ cũng thế, ông được hồi sức không phải chỉ vì có lương thực, mà còn do lấy lại được tinh thần : Ông được bảo đảm rằng Chúa luôn ở cùng ông. Chính sự bảo đảm này đã đem lại cho Êlia một nguồn sống mới và giục giã ông lên đường.
Chúng ta cũng đang hành trình lên núi Chúa, tức là sự sống đời đời. Nhiều lúc chúng ta cũng cảm thấy yếu đuối mệt mỏi. Cho nên chúng ta cũng cần được giúp đỡ ; những sự giúp đỡ của anh chị em tín hữu trong cộng đoàn, và nhất là sự giúp đỡ của Chúa. Sự giúp đỡ của Chúa chính là ý thức có Chúa ở với ta và hằng yêu thương ta. Như Êlia, chúng ta cũng cần bánh. Bánh ban sức mạnh chính là Mình Thánh Chúa trong bí tích Thánh Thể. Bánh Thánh thể được gọi là Viaticum, "lương thực đi đường". (Viết theo Flor McCarthy).

V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rằng : "Tôi là bánh từ trời xuống... không ai thấy Chúa Cha, chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha". Chúng ta hãy tin tưởng cầu xin với Người :

1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng và tuyên xưng rằng / Đức Giêsu Kitô là Đấng từ trời đến / là Con Chúa Cha ở trên trời, và là Thiên Chúa làm người / Đấng cứu độ duy nhất ở trần gian.
2. Xin cho mọi nhà cầm quyền và mọi người theo các tôn giáo khác / được nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ mà Chúa Cha sai đến / để giải thoát và cứu độ tất cả mọi người.
3. Xin cho mọi người chưa nhận biết ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô / được Chúa Cha lôi kéo đến với Người / để Người ban cho họ lương thực nuôi cả xác hồn.
4. Xin cho anh chị giáo hữu trong xứ đạo chúng ta luôn siêng năng dự lễ và rước lễ / để lãnh nhận lương thực bởi trời / mà chu toàn bổn phận mình trong cuộc hành trình về Nước Chúa.

Chủ tế  : Lạy Chúa chúng con cảm tạ Chúa là Cha yêu thương đã ban cho chúng con bánh từ trời xuống là Đức Giêsu Kitô. Xin cho chúng con luôn được nuôi dưỡng bằng Bánh bởi trời, để chúng con luôn có sự sống muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.

VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta đọc "Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày", chúng ta đừng chỉ xin cơm bánh vật chất, nhưng hãy xin Chúa ban cho chúng ta chính bản thân Ngài, để Ngài đồng hành với chúng ta luôn mãi trong cuộc đời.
- Trước lúc rước lễ : Ngày xưa ngôn sứ Êlia đã được ăn bánh Chúa ban, nhờ đó có sức lên núi Horép gặp Chúa. Chút nữa đây chúng ta sẽ được rước chính Mình Thánh Chúa. Xin cho thứ lương thực thần thiêng này bồi dưỡng sức khoẻ tinh thần cho chúng ta trong cuộc lữ hành dương thế.

VII. Giải tán
Chúng ta đã có Chúa trong lòng. Hãy lạc quan trở về cuộc sống và cùng sống với Chúa trong từng phút giây.

Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật XIX Thường Niên (B)
Chúa Nhật, 9 Tháng 8, 2015
Bánh Hằng Sống
Ga 6:41-51


Lời nguyện mở đầu

Lạy Thiên Chúa toàn năng, Thiên Chúa của Núi Thánh, Chúa đã biến đời sống mỏng manh của chúng con thành đá tảng đền thờ Chúa ngự.
Xin hãy hướng dẫn tâm trí chúng con biết đập vỡ những phiến đá trong sa mạc, để cho nước có thể chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng con. 
Nguyện xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con che phủ chúng con như tấm áo choàng trong bóng tối của đêm đen.
Và xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng con có thể nghe được tiếng vang vọng của sự im lặng cho đến lúc bình minh,
Xin hãy ấp ủ chúng con trong ánh sáng của buổi rạng đông,
Xin hãy mang đến cho chúng con,
Với than hồng từ lửa của những mục tử của Đấng Thánh
Là những người canh thức cho chúng con được gần với Thầy Chí Thánh, hương vị của kỷ niệm thánh.

1.  Bài Đọc

a)  Tin Mừng:
41 Khi ấy, những người Do-thái kêu trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: "Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống". 42 Họ nói: "Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi trời mà xuống'". 43 Chúa Giêsu trả lời cùng họ rằng: "Các ngươi chớ thì thầm với nhau. 44 Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 45 Trong sách các tiên tri có chép rằng: 'Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo'. Ai nghe lời giáo hóa của Cha, thì đến với Ta. 46 Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha. 47 Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.  48 "Ta là bánh ban sự sống. 49 Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. 50 Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. 51 Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". 
b)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:

Chương sáu của Tin Mừng theo Gioan trình bày toàn bộ bức tranh tiến triển xung quanh chủ đề lễ Vượt Qua, và tương tự với những gì đi trước đó, trải ra qua việc kể lại về một phép lạ (5:1-9a; 6:1-15) theo sau bởi một bài thuyết giảng (5:16-47; 6:22-59).  Chương này liên quan đến phần hoạt động của Chúa Giêsu tại Galilêa, một cách chính xác là tại thời điểm tuyệt vời nhất của nó, khi Chúa Giêsu mặc khải mình là bánh hằng sống đáng được tin tưởng và ăn để được cứu rỗi.  Trong các câu 1-15, chúng ta thấy phép lạ tuyệt vời của bánh hóa nhiều mang ý nghĩa quan trọng được mặc khải trong bài giảng vào ngày hôm sau trong các câu 26-59: món quà tặng bằng bánh để làm đỡ cơn đói của những người chuẩn bị đường đi cho những lời về bánh ban sự sống đời đời.  Chen vào đó là các câu 16-21, chúng ta thấy có câu chuyện về Chúa Giêsu đi trên mặt nước.  Trong các câu 60 đến 71, Chúa Giêsu biết rằng họ thiếu lòng tin (các câu 60-66) và cố gắng khuyến khích niềm tin của họ (các câu 66-71), kêu gọi mười hai môn đệ nên quyết định dứt khoát.  Toàn bộ bài giảng về bánh hằng sống (6:25-71) trình bày song song với một số văn bản bằng tiếng Do Thái, đặc biệt là với Philon.   

c)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Hãy để cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng chúng ta.

2.  Suy Gẫm

a)  Một vài câu hỏi gợi ý:

-  Họ thì thầm về Người:  có bao nhiêu tiếng nói thì thầm chống lại Thiên Chúa?  
-  Ta là bánh bởi trời mà xuống:  chúng ta mua bánh ăn hằng ngày ở đâu?
-  Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy:  Chúa Cha có lôi kéo chúng ta không hay là chúng ta kéo lê chân chúng ta đằng sau Người để rồi chỉ trích về những gì Chúa nói với chúng ta trong đời sống hằng ngày?
-  Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời:  chúng ta nuôi dưỡng mình với Lời của Chúa và Bánh của Người mỗi tuần một lần hoặc mỗi ngày… tại sao sự sống đời đời lại không hiển nhiên trong lời nói và kinh nghiệm con người của chúng ta?

b)  Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng:  
                                           
Than phiền kêu ca.  Có cách nào tốt hơn để cho chúng ta không sống ở chiều sâu mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta không?  Có hàng ngàn lý do chính đáng… hàng ngàn luận cứ vững chắc… hàng ngàn động lực hợp pháp… để cho chúng ta không nuốt lấy Lời mà bất chấp mọi lý do, mọi sự biện minh, mọi động lực để cho những âm thanh vang vọng mới cộng hưởng từ một thiên đàng không xa lắm ngự vào lòng chúng ta.  

Câu 41:   Khi ấy, những người Do-thái kêu trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: "Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống".  Chúa Giêsu vừa mới nói:  Ta là bánh hằng sống (câu 35) và Ta bởi trời mà xuống (câu 38) và điều nàytạo nên sự bất đồng quan điểm giữa đám đông.  Thuật ngữ Người Do Thái là một thuật ngữ thần học trong Tin Mừng Gioan và có thể được coi như là đồng nghĩa với những kẻ không tin.  Trong thực tế, có những người miền Galilêa được gọi là người Do Thái bởi vì họ kêu trách Chúa Giêsu về những lời làm xáo trộn phạm trù thông thường của họ.  Người Do Thái đã quen thuộc với thuật ngữ bánh bởi trời mà xuống.  Con cái nhà Israel biết bánh của Thiên Chúa, manna, đã làm cho họ no nê trong sa mạc và ban cho họ sự an sinh cho một cuộc hành trình bấp bênh mà tương lai thì không chắc chắn.  Đức Kitô, bánh bởi trời ban cho loài người trong sa mạc của lòng đói khát không nguôi cầu khẩn lên trời để duy trì nó trên đường lữ thứ.  Đây là bánh duy nhất có thể đáp ứng được cơn đói.  Những lời của người Do Thái là một sự phản đối về con người của Chúa Giêsu và cũng là cơ hội giới thiệu chủ đề thiếu lòng tin.  Trong các đoạn Tin Mừng khác, người ta “thì thầm” về Chúa Giêsu (7:12, 32), nhưng trong chương này họ “kêu trách” về những gì Người nói ra, về Lời của Người.  Việc kêu trách này đặt trọng tâm vào việc thiếu lòng tin và không thể lĩnh hội được của họ.   

Câu 42:  "Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi trời mà xuống'"? Đây là sự trớ trêu tinh tế.  Những kẻ không tin thì biết nguồn gốc trần thế của Đức Kitô, họ biết chắc đây là con ông Giuse, mà không phải là Con Thiên Chúa.  Chỉ cónhững ai biết nguồn gốc siêu phàm của Người bằng sự can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa trong Đức Trinh Nữ Maria.  Đoạn Tin Mừng đi từ ngôn ngữ vật chất, bánh được làm bằng nước và bột, đến ngôn ngữ tinh thần, bánh nuôi linh hồn loài người.  Như khi xưa người ta trong sa mạc đã làm, những người Do Thái trách cứ: họ không hiểu được nguồn gốc món quà của Chúa Giêsu: và như khi xưa cha ông họ đã từ chối bánh manna bởi vì nó quá nhẹ, và bây giờ thì đám con cháu từ chối Ngôi Lời bằng xương bằng thịt, bánh bởi trời mà xuống, bởi vì nguồn gốc trần thế của nó.  Những người Do Thái, từ tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã nói, chỉ lưu ý là Người đã nói rằng:  Ta bởi trời mà xuống (câu 38).  Tuy nhiên, câu nói này đưa ra căn bản cho tất cả những gì được nói trước đó về  bánh hằng sống (câu 35). Câu hỏi là:  Chớ ông này không phải là… được đặt ra trong một bối cảnh bất ngờ trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm.  Trong các sách Tin Mừng Mátthêu và Luca, qua câu chuyện về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, người ta đã được nghe nói về sự thụ thai đồng trinh của Chúa Giêsu.  Trong sách Tin Mừng Gioan, người Galilêa bị đối mặt với một người tuyên bố là bởi trời mà xuống mà không có bất kỳ một cuộc thảo luận nào trước đó về tình trạng phàm nhân của người ấy.  Con ông Giuse có nghĩa là Chúa Giêsu là một con người giống như tất cả mọi con người khác (xem 1:45).
      
Câu 43-44:  Chúa Giêsu trả lời cùng họ rằng: "Các ngươi chớ thì thầm với nhau.  Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy; và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”  Chúa Giêsu dường như không dừng lại ở nguồn gốc Thiên Chúa của mình mà còn nhấn mạnh rằng chỉ có những kẻ được Chúa Cha lôi kéo mới có thể đến được với Người.  Khi ấy đức tin là một ân sủng của Thiên Chúa và tùy thuộc vào sự cởi mở và khả năng lắng nghe của một người...  nhưng khi nói Chúa Cha lôi kéo thì có ý nghĩa gì?  Không phải là người ta được tự do trên cuộc hành trình này sao?  Sự lôi kéo không chỉ đơn giản được viết trong các thớ thịt trong tim của mỗi người.  Vì thế, sự tự do hoàn toàn thì tồn tại trong sự bám víu tự phát vào nguồn gốc bản thể của người ta.  Chỉ có Sự Sống mới có thể lôi kéo được sự sống, cái chết thì không thể lôi kéo được.         

Câu 45:  Trong sách các tiên tri có chép rằng: 'Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo'. Ai nghe lời giáo hóa của Cha, thì đến với Ta.  Phần còn lại của câu chuyện đi theo một trình tự rất chính xác.  Những lời này không phải là một lời mời, mà là một mệnh lệnh.  Lời Thiên Chúa sáng tạo, Đấng đã phán ra sự hiện có từ ánh sáng hư không và tất cả các sinh vật khác, bây giờ kêu gọi những người giống mình tham gia vào việc sáng tạo mới.  Hệ quả không bắt nguồn từ một quyết định cá nhân và tự trị, mà là từ việc gặp gỡ với con người Đức Giêsu và lời mời gọi của Người.  Đó là một sự kiện ân sủng, không phải là một sự chọn lựa của loài người. Chúa Giêsu không chờ đợi một quyết định tự do, mà kêu gọi với uy quyền thiêng liêng như Thiên Chúa đã gọi các tiên tri trong Cựu Ước.  Không phải các môn đệ là những kẻ chọn Thầy như trong trường hợp với các giáo sĩ Do Thái vào thời ấy, mà là Chúa chọn các môn đệ như những người thụ hưởng thừa kế di sản của Thiên Chúa, cao quý hơn bất kỳ một học thuyết hoặc giáo lý nào rất nhiều.  Lời mời gọi hàm ý sự từ bỏ gia đình, nghề nghiệp, một thay đổi hoàn toàn cách sống của một người để bám víu vào một cách sống mà không có chỗ cho tự coi mình là trung tâm vũ trụ.  Các môn đệ là dân riêng của Nước Trời.  Lời mời gọi để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu là một “lời mời gọi cánh chung”.  Lời của tiên tri Babylon trong thời gian lưu đày nói rằng:  “và tất cả các con cái Giêrusalem sẽ được” – nói về những người Do Thái.  Việc sử dụng thành ngữ:  “tất cả sẽ được” là một lời diễn đạt phổ quát của ơn cứu độ mà người làm viên mãn là Chúa Giêsu.        

Câu 46:  Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha.  Chỉ có Chúa Giêsu, Đấng từ Thiên Chúa, đã thấy Chúa Cha và có thể mặc khải về Người một cách dứt khoát.  Mọi người được gọi đến từ Thiên Chúa.  Sự hiểu biết về Chúa Cha không phải là một sự chinh phục, nó là một nguồn gốc.  Sự chuyển động không phải ở bên ngoài.  Nếu tôi đi tìm một nguồn gốc bên ngoài thì tôi có thể nói rằng tôi có cha và mẹ, một tạo vật của thế gian thụ tạo.  Nếu tôi đi tìm một nguồn gốc sâu xa hơn về bản thể con người của tôi, thì tôi có thể nói rằng tôi đến từ Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa của mọi sự sống.

Câu 47:  Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.  Tin vào lời của Chúa Giêsu, tin vào sự mặc khải của Người, là một điều kiện để có được sự sống đời đời và có thể “được giảng dạy bởi Đức Chúa Cha”.  Tôi tin, tôi dựa vào một tảng đá.  Sức mạnh không đến từ bên trong các giới hạn loài thụ tạo của tôi, cũng chẳng phải trong việc nhận thức về loài thụ tạo của tôi để đạt được sự hoàn hảo.  Tất cả đều vững chắc trong Người là Đấng không hề có những ràng buộc bởi thời gian.  Làm thế nào mà một tạo vật dựa vào chính nó khi mà nó không phải là chủ của bất kỳ một thời khắc nào của cuộc đời nó?

Câu 48:  Ta là bánh ban sự sống.  Một lần nữa, chủ đề bánh ban sự sống được trình bày cùng với đức tin và sự sống đời đời.  Chúa Giêsu là bánh ban sự sống thật.  Câu Tin Mừng này được nối kết với câu 51 “Ta là bánh hằng sống”.  Chỉ những ai ăn bánh này, thì người ấy mới so sánh được sự mặc khải của Chúa Giêsu như bánh ban sự sống, mới có thể sống.

Câu 49-50:  Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết.  Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết.  Bánh bởi trời mà xuống thì tương phản với bánh manna đã nuôi sống cha ông họ nhưng đã không giữ gìn cho họ khỏi cái chết.  Bánh ban sự sống không bao giờ dứt và bởi trời mà xuống chính là Ngôi Lời Nhập Thể của Thiên Chúa.  Chủ đề Thánh Thể, đã được hàm ý trong một số lời diễn tả, bây giờ trở thành trung tâm điểm.  Cái chết trần thế không mâu thuẫn với kinh nghiệm này về sự sống nếu người ta đi theo cách siêu nhiên. Giới hạn là sự vô hạn cho những ai ăn thịt của Người.

Câu 51:  Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".  “Thịt” của Chúa Giêsu là thức ăn quan trọng cho người tín hữu.  Thuật ngữ thịt (sàrx), mà trong Kinh Thánh cho thấy thực tại mỏng dòn của loài người trước mầu nhiệm Thiên Chúa.  Nó không còn là một ẩn dụ về bánh ban sự sống, mà nó là sự mặc khải của Chúa Giêsu bởi vì bánh này chính thật là thịt của Con Một Thiên Chúa. Cho thế gian được sống có nghĩa là thiên về và nhấn mạnh đến chiều kích hy tế của Đức Kitô, bởi vì đối với thế gian biểu lộ sự cứu rỗi phát xuất từ chiều kích đó.
     
c)  Suy niệm:

Ta thán.  Nếu lời ta thán của chúng ta giống như cơn gió thoảng, nó sẽ tác dụng như là một căn bản hài hòa để cho lời hằng sống trở thành xác thịt chúng ta:  Ta là bánh hằng sống từ trời xuống.  Thật là một bất ngờ, biết rằng Bánh hằng sống này không ai xa lạ, mà chính là Đức Giêsu, con ông Giuse, một người mà chúng ta biết mẹ biết cha.  Chúng ta ăn và chúng ta giả định, bởi vì hễ ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời.  Đây là bánh được sinh ra từ tình yêu của Chúa Cha.  Chúng ta được mời để lắng nghe và học hỏi từ Ngài trên quỹ đạo của sự thu hút, tại tột đỉnh của đức tin cho phép chúng ta nhìn thấy. Bánh của Chúa với bánh, Thịt của Chúa với thịt.  Chỉ có Người, Đấng đến từ Thiên Chúa, đã nhìn thấy Chúa Cha.  Và khi chúng ta đã để cho xác thịt của mình là bàn tiệc của Bánh hằng sống, thì khi ấy chúng ta sẽ được thấy Chúa Cha.  Sa mạc và cái chết, thiên đàng và sự sống.  Một cuộc giao duyên ngọt ngào được viên mãn trong mọi Bí Tích Thánh Thể… trên mọi bàn thờ, trên bàn tế lễ của con tim nơi mà sự sống của hơi thở Thiên Chúa thiêu đốt nét mặt biến dạng của kẻ lạc loài.  

3.  Cầu Nguyện


Thánh Vịnh 33 (32)

Một lời CHÚA phán làm ra chín tầng trời,
một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú.
Chúa dồn đại dương về một chỗ,
Người đem biển cả trữ vào kho.

CHÚA đảo lộn chương trình muôn nước,
Người phá tan ý định chư dân.
Chương trình CHÚA ngàn năm bền vững,
ý định của lòng Người vạn kiếp trường tồn.

CHÚA để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,
hầu cứu họ khỏi tay thần chết
và nuôi sống trong buổi cơ hàn.

4. Chiêm Niệm

Lạy Chúa, kinh nghiệm về những thức ăn làm dịu cơn đói của tâm hồn nhắc nhở con rằng con có thể vượt qua từ sự bất toàn đến con người giống hình ảnh Chúa, không phải bằng cách thoát khỏi cơn đói, mà là tìm thấy trong đó không còn là một con người đang mơ màng nữa, một kẻ không thắc mắc về chính mình, kẻ sống không có bất kỳ quyền lợi, không muốn nhìn hay cảm thấy, kẻ sẽ không cho phép mình được đụng chạm, kẻ sống trong nỗi sợ hãi, trọng bề ngoài hơn là nội tâm, và kẻ giữ vị thế lưng chừng khi phải đối mặt với những biến cố, ngủ mê hoặc thờ ơ với bất cứ điều gì mà người ấy gặp… mà phải là một người cẩn trọng, luôn luôn tỉnh thức với chính mình và những người khác, có khả năng đáp ứng bản thân mình bởi việc làm của mình, người có trách nhiệm không dừng lại tại hôm nay, mà là kẻ biết cách giữ tốc độ mình cho cuộc chờ đợi lâu dài và đầy kiên nhẫn, kẻ biểu lộ tất cả những gì ở trong mỗi đoạn của cuộc đời mình, kẻ không còn sợ hãi cảm giác dễ bị tổn thương, bởi vì người ấy biết rằng các vết thương trên con người mình có thể được biến đổi thành những vết thẹo qua đó Sự Sống kết hợp khi thời gian trôi qua, một Sự Sống mà cuối cùng có thể nhận ra được Mục Đích của mình và ca vang Tình Yêu với “trái tim đầy vết thẹo” được bao bọc trong một “ngọn lửa thiêu cháy nhưng không làm tổn thương” và để chuẩn bị cho mình một cách dứt khoát để “xé tấm màn che”.  Cơn đói không còn là cơn đói nữa, bởi vì bây giờ nó trở thành sự giới hạn êm ái, được bảo vệ bởi “vết thương ngọt ngào” và luôn mở ra cho “cuộc gặp gỡ dịu dàng” sẽ đáp ứng được mọi mơ ước:  “Chúa Yêu Thương là núi đá, là thung lũng bằng phẳng đầy bóng rợp… Người giống như đêm đen bình an, rất gần lúc bình minh, một khúc nhạc yên lặng, một sự im lặng vang dội… Ai sẽ chữa lành trái tim đầy vết thương này của lòng con?  Chúa là ngọn lửa thiêu cháy mà không làm tổn thương!  Ôi lạy Chúa Yêu Thương của con, xin hãy xé bức màn vào thời điểm cuộc gặp gỡ êm ái của chúng ta.”    


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét